Protein tái tổ hợp và virus Aujeszky
3
tràn dưới dạng nhiễm trùng tiềm ẩn, gây tử vong heo con bằng chúng
viêm não cấp và suy đường hô hấp ở heo lớn hơn. Ở các loài khác
bệnh gây chứng viêm não kèm theo triệu chứng ngứa.
Năm 1902, Aladar Aujeszky, giáo sư vi trùng học trường Thú y
Budapest, đã phân lập một căn bệnh bằng việc nuôi cấy
trên thỏ mẫu bệnh phẩm lấy từ thần kinh trung ương chó
và bê (xuất hiện các triệu chứng thần kinh giống như bệnh
dại) với biểu hiện ngứa dữ dội ở điểm tiêm truyền. Nhưng
thời gian nung bệnh ngắn 3 ngày, dẫn đến chết trong 24-48
giờ. Về sau, bệnh được ghi nhận ở nhiều loại thú. Năm
1966, xác định heo là ổ chứa và là nguồn lây nhiễm bệnh
chủ yếu.
Bệnh xuất hiện ở một số quốc gia Châu Âu, Đông
Nam Á, trung tâm và nam Mỹ (bao gồm Mexico). Vài quốc gia như
Áo, Úc, Nhật chưa thấy bệnh xuất hiện. Những năm gần đây đã gây
thiệt hại ở nhiều quốc gia như Singapore, Đài Loan…Tầm quan trọng
về mặt kinh tế của bệnh đã được đề cập và nó đã dần thay thế vị trí số
một của bệnh dịch tả heo cổ điển.
1.2. Nguồn lây nhiễm
Heo là vật chủ tự nhiên của virus Aujeszky và là nguồn mang bệnh
tiềm ẩn. Tuy nhiên, virus cũng có thể lây nhiễm cho tất cả các động
vật nuôi và hoang dã khác như trâu bò, cừu, dê, mèo và chó. Bệnh
không lây nhiễm cho người và khỉ, tỉ lệ mắc bệnh ở ngựa rất hiếm.
Heo bệnh: Các chất tiết (mũi, miệng, cơ quan sinh dục) và tử thi của
heo thì rất giàu virus.
Heo khỏi bệnh mang virus: Có thể thấy virus trong nước mũi khoảng
6 tháng sau.
Heo khỏe mang virus: (thể nhiễm trùng thầm lặng) có thể gặp trên heo
sinh sản hay heo đã tiêm vaccine.
Các sản phẩm động vật như thịt và cơ quan (gan, thận, phổi), tinh
trùng, huyết thanh heo.
Virus có thể tồn tại trong thức ăn, nước uống, phương tiện vận chuyển
trong 30-40 ngày và có thể được gió mang đi từ vài trăm mét tới 2 km.
1.3. Cách lây lan: